Công suất giảm và nhu cầu tăng khiến giá cước tăng cao trên tuyến Đại Tây Dương
Giá cước vận tải container trên tuyến Đại Tây Dương tăng do tình trạng thiếu hụt công suất và khối lượng hàng hóa tăng, trong bối cảnh lo ngại về cuộc đình công sắp xảy ra ở cảng Bờ Đông Hoa Kỳ và sự không chắc chắn về chính sách thương mại sau bầu cử.
Sự không chắc chắn đang ảnh hưởng đến tuyến thương mại Đại Tây Dương khi các cuộc tranh luận bầu cử nóng lên và chúng ta đang đến gần thời hạn để công nhân và các nhà khai thác cảng ở Bờ Đông Hoa Kỳ đạt được thỏa thuận hợp đồng.
Giá cước trên tuyến Đại Tây Dương đã biến động trong năm nay khi các chủ hàng tìm cách tránh những tác động xấu nhất của việc chuyển hướng Biển Đỏ, khiến công suất bị dịch chuyển từ Đại Tây Dương sang cả Thái Bình Dương và Châu Á/Châu u.
Ảnh hưởng của việc chuyển hướng Biển Đỏ đối với tuyến vận chuyển Đại Tây Dương đã được nhìn thấy ngay với việc giá cước từ Địa Trung Hải tăng từ dưới 1.500 USD/FEU lên gần 2.250 USD/FEU vào tháng 2 năm nay. Và một tác động tương tự cũng được thấy ở giá cước Bắc u tăng vọt từ 1.875 USD/FEU lên 2.250 USD/FEU trong cùng tháng, theo số liệu của Xeneta.
Hiện nay, giá cước vận chuyển hàng xuất khẩu từ Bắc u sang Hoa Kỳ là 2.750 USD/FEU và từ Địa Trung Hải là 2.250 USD/FEU, lần lượt tăng 64,68% và 43,73% so với cùng kỳ năm trước, Xeneta cho biết.
Tuy nhiên, khối lượng vận chuyển trên Đại Tây Dương có tác động không nhiều đến giá cước, theo Giám đốc điều hành Thống kê Thương mại Container (CTS) Nigel Pusey: “Khối lượng của Hoa Kỳ, Canada và Châu u trên Đại Tây Dương vẫn không đổi và phần lớn không bị ảnh hưởng bởi xung đột Biển Đỏ – khối lượng và giá cước vận tải hàng hóa đã cho thấy ít tác động từ tình trạng thiếu container nói chung ở các khu vực địa lý khác.”
Tuy nhiên, sự gia tăng khối lượng hàng hóa không thể giải thích cho tất cả những đợt tăng giá này, với khối lượng xuất khẩu của Bắc Mỹ, bao gồm cả Hoa Kỳ và Canada, tăng 12,39%, tương đương 113.180 TEU, trong bảy tháng tính đến tháng 7 năm 2024, lên tới 1,026 triệu TEU, so với 912.894 TEU cùng kỳ năm ngoái, theo dữ liệu từ CTS.
Trong khi đó, lượng nhập khẩu của Bắc Mỹ đã tăng 5% từ 2,079 triệu TEU lên 2,183 triệu TEU, tăng 103.786 TEU trong cùng kỳ, CTS cho biết.
Một phần, những thay đổi về giá cước được cho là do mùa cao điểm đến sớm, nhưng cũng có sự gia tăng trong việc đưa thêm tàu vào khai thác, với Ocean Alliance dẫn đầu.
Hãng vận tải Pháp CMA CGM có năm dịch vụ Đại Tây Dương vào giữa năm 2023, ba dịch vụ trong liên minh, tất cả đều đến Hoa Kỳ, với 15 tàu, tổng cộng 83.000 TEU. Đến giữa năm 2024, con số đó đã giảm xuống còn bốn dịch vụ, ba dịch vụ trong liên minh đến Hoa Kỳ, với tám tàu, tổng cộng 55.000 TEU.
Đối tác liên minh Evergreen của hãng đã không vận hành một tàu nào trên Đại Tây Dương kể từ tháng 7 khi tàu Ever Living bị rút và tham gia các tuyến ở châu Á, và dự kiến sẽ không quay trở lại Đại Tây Dương cho đến ngày 1 tháng 11.
Dữ liệu của MDS Transmodal cho thấy Evergreen hiện không có tàu trên tuyến thương mại này, nhưng cung cấp các dịch vụ Bờ Đông Hoa Kỳ thông qua các đối tác của liên minh Ocean Alliance. Evergreen và CMA CGM không đơn độc trong việc chuyển công suất ra khỏi các tuyến thương mại Đại Tây Dương, với thống kê của MDS Transmodal cho thấy tổng công suất giảm 18,6% so với cùng kỳ năm trước, xuống còn 872.630 TEU, từ 1.071.537 TEU.
Điều thú vị là việc tái triển khai tàu của CMA CGM chủ yếu là đến Thái Bình Dương, nơi đã chứng kiến công suất triển khai của hãng tăng 5%, so với chỉ 0,7% trên tuyến thương mại Châu Á/Châu u.
Mối quan tâm hiện nay chuyển sang ngày 1 tháng 10, khi các công nhân bến cảng ở Bờ Đông dự kiến sẽ bắt đầu hành động nếu các cuộc đàm phán với người sử dụng lao động đổ vỡ.
Nhà phân tích Darron Wadey của Dynamar cho biết, báo cáo Global Port Tracker của Liên đoàn Bán lẻ Quốc gia/Hackett Associates dự báo nhập khẩu vào Hoa Kỳ sẽ tăng 14% so với cùng kỳ năm ngoái trong tháng 9 lên 2,3 triệu TEU, Wadey báo cáo, khi các chủ hàng mang hàng đến sớm hơn.
Ông cho biết điều này chủ yếu là do nhập khẩu từ châu Á, mặc dù các lô hàng xuyên Đại Tây Dương, với chặng xuất khẩu châu u là hướng chi phối, sẽ đóng một vai trò phụ trợ.
Ông nói tiếp: “Không còn nghi ngờ gì nữa, các hãng vận tải sẽ có những phương án dự phòng [để duy trì dịch vụ] – một kế hoạch đã có sẵn nếu bạn muốn.”
Trong khi đó, nhà phân tích trưởng của Xeneta, Peter Sand, cảnh báo rằng “Mọi người kinh doanh với Hoa Kỳ đều nên cảm thấy lo lắng”, sau cuộc tranh luận bầu cử hôm thứ Ba giữa Donald Trump và Kamala Harris.
Thuế quan sẽ tăng 20% trên toàn bộ nếu Trump đắc cử và từ 60% đến 100% đối với hàng hóa xuất khẩu từ Trung Quốc.
Tuy nhiên, Sand cũng chỉ ra chính quyền Biden/Harris, vốn duy trì thuế quan do Trump đưa ra trong nhiệm kỳ đầu tiên của ông, và không có kỳ vọng rằng những rào cản thương mại đó sẽ được dỡ bỏ, hoặc nhiệm kỳ tổng thống của Harris sẽ không làm tăng chủ nghĩa bảo hộ bởi các nghĩa vụ thuế quan nhập khẩu này.
Theo Xeneta, người cho rằng mức thuế quan dưới thời Harris sẽ “khác”, thì chính sự không chắc chắn kiểu này đang giết chết thương mại, “Việc chúng ta không biết phải mong đợi mức thuế quan nào gây ra sự không chắc chắn”, Sand nói, và có nghĩa là “Mọi người kinh doanh với Hoa Kỳ nên cảm thấy lo lắng.”
Nguồn: Phaata.com (Theo Container-News)